Xin chào Khách |   Đăng nhập 
Cấu trúc nội dung
  • Vị trí địa lýVị trí địa lý
  • Hành chínhHành chính
  • Kinh tếKinh tế
  • Du lịchDu lịch
    • Danh sách các chủ đề
  • Đất đaiĐất đai
  • Khoáng sảnKhoáng sản
  • Môi trườngMôi trường
  • Tài nguyên nướcTài nguyên nước
Giới thiệu chung

Du lịch Thanh Hóa thú vị hơn bạn tưởng tượng

1. Bãi biển Sầm Sơn

 Bãi biễn Sầm Sơn

  Bãi biển Sầm Sơn có hình trăng khuyết, chạy dài 9km từ chân núi Trường Lệ đến xã Quảng Cư (thị xã Sầm Sơn), rộng hàng nghìn mét, bằng phẳng, cát mịn, không có chỗ quá sâu, lầy thụt hoặc đá ngầm, sau hô nhờ đó, đã tạo nên những bãi tắm lý tưởng, người tắm có thể ra khá xa bờ vẫn thấy an toàn.

  Nước biển Sầm Sơn có độ mặn và nhiệt độ thích hợp, có lợi cho sức khỏe và có khả năng chữa được một số bệnh, rất thích hợp cho con người nghỉ ngơi, an dưỡng. Nhà học giả người Pháp Le Breton nhận định: “Đây là bãi tắm tốt nhất để phục hồi sức khoẻ”.

  Sóng biển Sầm Sơn nhẹ nhàng, khí hậu điều hòa như chiếc máy điều hòa nhiệt độ khổng lồ, giữ cho mùa hè lộng gió và dịu mát, mùa đông bớt phần giá buốt. Biển Sầm Sơn có gần 1.000 loại tôm, cua, cá và nhiều hải sản quí hiếm; đặc biệt có món gỏi cá và lẩu rắn biển được nhiều người ưa thích.

  Sầm Sơn còn có một loại phương tiện đi biển đặc biệt đó là: những chiếc mảng làm bằng luồng. Năm 1994, ông Tim Severin đã đóng và hạ thủy tại đây một chiếc mảng vượt đại dương làm bằng những cây luồng Thanh Hóa. Ông mời anh Lương Văn Lợi - một ngư dân sở tại cùng vượt Thái Bình Dương và trở về an toàn. Đến tham quan, ta có thể nghe anh Lợi kể lại chuyện vượt biển này và xem những bức ảnh chụp chiếc mảng đang thử thách trước những cơn bão lớn giữa vùng biển Nhật Bản và Đài Loan.

  Sầm Sơn không chỉ có bãi biển đẹp, bãi tắm tuyệt vời, lại có cả núi đá, đủ các hòn lớn, nhỏ, nằm, ngồi, chồng lên nhau thành muôn hình muôn vẻ, ngay cạnh mép nước biển, có rừng cây bóng mát, có đền chùa, di tích với nhiều truyền thuyết cổ tích, dân gian... lý thú. Đó là đền thờ thần Độc Cước, đền Cô Tiên, đền Tô Hiến Thành, hòn Trống Mái v.v...

  Đền Độc Cước: Đền thờ một vị thánh một chân, có kỳ tích bảo hộ quê hương chống loài quỉ biển. Đền ở trên núi Cổ Rùa, thuộc dãy Trường Lệ. Dãy núi này có hình thù một phụ nữ nằm ngửa, bộ ngực nở nang. Đền có ghi năm trùng tu vào niên hiệu Chính Hòa (1675 - 1705).

  Đền Cô Tiên: Đền được xây trên hòn Đầu Voi, dưới chân là Vụng Ngọc và hòn Câu. Nơi đã được Bác về thăm và nghỉ tại đây (1960).

  Đền thờ Tô Hiến Thành: một đại thần triều Lý (thế kỷ XII) nổi tiếng thanh liêm chính trực, từng cầm quân vào dẹp loạn ở vùng ven biển Thanh Hóa, nhờ thế nhân dân được an cư lạc nghiệp.

Hòn Trống- Mái trên núi Trường Lệ

  Hòn Trống mái: Nơi có hai hòn đá to nhỏ châu vào nhau, xung quanh là những đá nhỏ. Truyền thuyết nói đây là một gia đình có đôi vợ chồng và đàn con đã hóa thành đá, để vĩnh viễn thuỷ chung bên nhau. Nhà văn Khái Hưng có tiểu thuyết Trống Mái là do cảm hứng từ cảnh đẹp này.

  Đã từ lâu Sầm Sơn nổi tiếng là một khu du lịch và nghỉ mát có nhiều thắng cảnh. Kể từ năm 1981 đến nay, Sầm Sơn được xây dựng và phát triển trên những quy mô mới của một thị xã du lịch. Hàng trăm khách sạn, cơ sở điều dưỡng của các bộ, ngành ở Trung ương và trong tỉnh, của các tư nhân với nhiều kiểu dáng vừa hiện đại, vừa đậm nét kiến trúc truyền thống được xây dựng với những điều kiện phục vụ ngày càng hiện đại, nhằm phục vụ cho khách tham quan du lịch, nghỉ mát trong nước và khách nước ngoài. Trong tương lai, khu du lịch và nghỉ mát này sẽ còn được đầu tư và phát triển.

 

2. Thắng tích Hàm Rồng.

Khu di tích Hàm Rồng

  Hàm Rồng cách trung tâm thành phố Thanh Hoá 4 km, ở dọc trục đường Quốc lộ 1A. Trong tương lai không xa nơi đây sẽ là khu du lịch văn hoá sinh thái hấp dẫn của Thanh Hoá. Thắng tích Hàm Rồng gồm một quần thể núi, sông kỳ tú, sơn thủy hữu tình:

  - Núi Rồng: là một dãy núi bao gồm nhiều ngọn, chạy dọc bờ Nam sông Mã có hình dáng con rồng theo trí tưởng tượng dân gian.

  - Động Long Quang: còn gọi là hang Mắt Rồng, xuyên từ bên này sang bên kia như đôi mắt. Nhiều nhà thơ đã đến đây từ đời Trần (Phạm Sư Mạnh, Lê Quát), đời Lê (Lê Thánh Tông). Nguyễn Trãi có bài Long đại nham nổi tiếng.

  - Núi Voi: Từ Hán là Tượng Sơn, có nhiều hang động, cảnh rất đẹp: Thạch nhũ tạo nên nhiều hình dáng, được xem như là những cảnh địa ngục, cảnh thủy cung hội hè rước xách, cảnh trai gái tự tình.

  - Núi Nít: Còn có tên là núi Ngọc, là hòn Hỏa Châu Phong, vì trông như cột lửa phụt lên tự lòng đất. Núi này ở bờ Bắc sông Mã, đối diện với núi Rồng (bờ Nam). Đi qua vùng này, không mấy ai không biết đến các câu ca dao cổ:

                                      “Chín mươi chín ngọn bên Đông,

                          Còn một ngọn Nít sang sông chưa về”.

                                      “Thanh Hóa thắng địa là nơi

                          Rồng vờn hạt Ngọc, Hạc bơi chân Thành” v.v...

  - Ở phía Tây: Còn nhiều núi có hình thù kỳ thú: Núi Ngũ Hoa phong, giống 5 bông hoa, núi Mẹ núi Con giống hai quả trứng, núi Tả Ao như người đàn ông ngủ, núi con Mèo, núi Cánh Tiên...

  - Cầu treo Hàm Rồng bắc qua sông Mã: Được xây dựng năm 1904, đã tô thêm cảnh đẹp Hàm Rồng. Thi sĩ Tản Đà đã cảm tác nhớ mong (thơ 1933):

                                 “Ai xui ta nhớ Hàm Rồng

                           Muốn trông chẳng thấy cho lòng khôn khuây

                                 Từ ta trở lại Sơn  Tây

                           Con đường Nam Bắc ít ngày vãng lai”                                 

                                 Sơn cầu còn đỏ chưa phai?

                          Non xanh còn đối? sông dài còn sâu?

                               Còn thuyền đánh cá buông câu?

                          Còn xe lửa chạy trên cầu như xưa?”.

  Trong kháng chiến chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, Hàm Rồng nổi tiếng với nhiều chiến công.

  - Năm 2000, một cây cầu lớn và hiện đại được xây dựng cạnh cầu Hàm Rồng bắc qua sông Mã, gọi là cầu Hoàng Long.

 

3. Động Bích Đào.

Động Bích Đào

  Còn gọi là hang Từ Thức, thuộc xã Nga Thiện, huyện Nga Sơn, là nơi theo cổ tích đã diễn ra câu chuyện gặp gỡ tiên trần giữa Từ Thức - Giáng Hương. Cảnh trí rất đẹp: nhiều thạch nhũ tạo thành các hình phường bát âm, tranh ảnh, bàn cờ, áo mũ, bàn tay Từ Thức - Giáng Hương, cô và cậu, măng đá, non bộ, cây vàng, đào tiên... có đường “lên trời”, đường xuống “âm phủ” . Sách Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ (thế kỷ XVI) đã viết truyện này. Sau đó Lê Khắc Khuyến viết tập truyện nôm Từ Thức tiên hôn (đầu thế kỷ XX). Nhiều văn nhân, học giả tới đây đề thơ, bài của Lê Quý Đôn là tiêu biểu.

  “Đề Bích Đào động

Hải thượng quần tiên sự diễu mang

Bích Đào động khẩu cửa hoang lương

Kiền khôn nhất cát cùng Từ Thức

Vân thủy song nga lão Giáng Hương

Thạch cổ hữu thanh xao hiểu nhật

Sa diêm vô vị niết thu sương

Thế nhân khổ tác Thiên Thai mộng

Thùy thức Thiên Thai diệc hí trường”

Tạm dịch:

“Mờ mịt thần tiên ngất dặm dương

Bích Đào động cũ dấu thê lương

Áo gai phiêu bạt thân Từ Thức

Mây nước già dăm mặt Giáng Hương

Trống đá nghe khua lay động sớm

Sương thu chăng đượm cát sa trường

Thiên Thai bao kẻ từng xây mộng

Nào biết Thiên Thai cũng hí trường”.

  Cách động Bích Đào chừng 1 km về phía trái là động Dơi, có tên là động Bạch Ác, cũng có nhiều thơ đề vịnh.

 

4. Động Hồ Công

Đường vào Động Hồ Công

  Dọc đường 45, đi từ thành phố Thanh Hóa, qua sông Chu (cầu Vạn Hà), sông Mã (cầu Kiểu) đến dãy núi Xuân Đài (xã Vĩnh Ninh, huyện Vĩnh Lộc) nổi tiếng từ xưa. Nhờ dưới chân núi có chùa Dụ Anh (tức chùa Thông - xây dựng năm  1270) và trên lưng chừng núi có động Hồ Công. Động Hồ Công từng được người xưa liệt vào kỳ quan bậc nhất ở phương Nam. Truyền thuyết kể là xưa kia, ở đây có chàng Trịnh Phát Giác được gặp vị tiên là Hồ Công Long, cho vào ở trong một quả bầu là một thế giới thần tiên, con người cực kỳ sung sướng. Khi Trịnh được về, Hồ Công cho một cái gậy rút, y như chuyện Phí Trường Phòng ở Trung Quốc ngày xưa. Bên đường lên động, trên một phiến đá tự nhiên có khắc dòng chữ: “Thanh kỳ khả ái” (xứ Thanh kỳ lạ đáng yêu).

  Nhiều văn nhân, danh sĩ đã đề thơ tại đây như: Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Nghiễm, Trịnh Sâm, Ngô Thì Sĩ... bài thơ của Lê Thánh Tông là tiêu biểu:

  “Thần chùy, quỷ tạc vạn trùng san

Hư thất cao sang vũ trụ khoan

Thế thượng công danh đồ thị mộng

Hồ trung nhật nguyệt bất thăng nhàn

Hoa Dương long khứ huyền chân trụy

Bích lạc truyền lưu bạch ngọc hàn

Ngã dục thừa phong lăng tuyệt đỉnh

Vong cung vân hải hữu vô gian”.

Tạm dịch:

Khôn thiêng khéo tạc núi muôn trùng

Cửa động thênh thang gió dễ thông

Cuộc thế công danh như giấc mộng

Bầu tiên mừng nguyệt thú vô cùng

Hạt châu rơi đất nghi rồng hóa

Giọt nước muôn trời rẽ suối trong

Muốn cưỡi gió lên chơi đỉnh núi

Trông mây, trông nước tứ tầng không

  Cách động Hồ Công không xa, có ngọn núi rất giống hình dáng một vị tiến sĩ, nên cũng gọi là núi Tiến sĩ. Núi này ngoảnh về làng Bồng (xã Vĩnh Tân) là nơi có nhiều người đỗ đạt, quê hương cụ nghè Tống Duy Tân.

 

5. Động Kim Sơn

Động Kim Sơn

  Ở xã Vĩnh An, huyện Vĩnh Lộc là một vùng sơn thủy hữu tình, rộng khoảng 150 ha, trong đó có 80 ha là hồ vực. Vào động, phải đi thuyền luồn qua hang (như cách vào động Phong Nha, Quảng Bình). Phía trong là nhiều động, nhiều khối đá, có hồ rộng, có cả những động lộ thiên, có cầu được nói là cầu Tiên Bắc. Một ngôi động lớn hơn, được nói là nơi vua Trần đã vào đây ẩn nấp khi đánh quân Nguyên Mông. Đặc biệt trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nơi đây là công binh xưởng sản xuất vũ khí của quân đội, đồng thời là nơi trú ẩn của nhân dân. Kim Sơn cũng có nhiều bia, có nhiều thơ, văn, đại tự, mỹ tự... đề vịnh được khắc sâu vào vách động.

  Kim Sơn có nhiều sản vật: Dưới nước là tôm, cá, ba ba;  trên núi là sáo, vẹt. Đặc sản ở đây là củ ấu gai, đầu nhọn như hai cái sừng, ăn bùi và béo. Sau động là một ngọn núi, gọi là núi Mụ Thệu. Huyền thoại kể rằng mụ này nhìn vào vật gì thì vật ấy hóa đá, nhưng đã có phép của sáu nàng tiên ngăn cản những hành động của mụ.

 

6. Biện Sơn

  Biện Sơn còn có tên là Cù lao Biện ở về phía Đông Nam, huyện Tĩnh Gia, giáp huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Từ trong đất liền trông ra, Biện Sơn giống như một con chiến mã khổng lồ đang nằm ngủ, phía Đông Biện Sơn là biển cả mênh mông, phía Tây là vụng Ngọc và đất liền, phía Nam là hòn Cù, phía Bắc là đảo Mê và nhiều hòn đảo khác, được mệnh danh là Thập bát Mã Sơn và đều có hướng quay nhìn về Biện Sơn. Dân gian có câu:

                                      “Bung, Mê, Sổ, Sập tứ bề

                          Hòn Vàng choi chói, chầu về Biện Sơn”.

  Địa thế Biện Sơn có nhiều ngọn núi cao thấp, nhấp nhô như làn sóng biển. Nhiều hòn đá, hang đá trên đảo tạo nên những hình tượng tuyệt mỹ. Đứng trên đỉnh cao của Cù lao Biện nhìn bốn phía mênh mông biển cả, sóng vỗ dập dờn, nhấp nhô, xanh biếc. Xưa kia nơi đây cây cối um tùm, rợp bóng quanh năm, được mệnh danh là hòn đảo xanh, hòn ngọc của bờ biển miền Trung.

  Biện Sơn có vụng Ngọc, nơi tàu thuyền ra vào, nghỉ lại an toàn, không sợ bão to sóng lớn, có giếng Rửa Ngọc (Tẩy Ngọc), có giếng nước ngon trong mát, người đi biển thường ghé tới lấy nước pha trà, có sự tích An Dương Vương, Mỵ Châu, Trọng Thủy cùng nhiều kỷ niệm lịch sử và huyền thoại.

  Biển Biện Sơn bốn mùa tôm, cá và hải sản quý. Đặc biệt có yến sào, ngọc trai, sò huyết... Khí hậu Biện Sơn mùa hè dịu mát, không khí trong lành, đã có con đê lớn nối với đất liền. Biện Sơn đang cùng với đảo Mê và các đảo lân cận hình thành cụm du lịch sinh thái biển lý thú trong khu công nghiệp Nghi Sơn.

  Biện Sơn xưa và nay vẫn là thắng cảnh đẹp như dân gian hằng ca ngợi:

                                      “Biện Sơn biển bạc, rừng vàng

                                  Ai đi đến đó, lãng quên đường về”

 

7. Núi Nhồi - Núi Vọng Phu

 Núi Nhồi - Núi Vọng Phu

  Núi Nhồi cách trung tâm thành phố Thanh Hóa khoảng 3km về phía Tây, thuộc địa phận hai xã Đông Hưng và Đông Tân (ngày nay thuộc địa phận thành phố Thanh Hóa). Bao quanh núi Nhồi gồm các núi quần tụ liền nhau, đó là núi Đống (phía Tây), núi Chân Thần (phía Tây Nam), núi Nấp (Quảng Náp phía Nam), núi Chồng Mâm (núi Đình Thượng - phía Bắc). Dưới chân núi là dòng Hương Giang lượn quanh làng xóm đông đúc rồi thông ra sông Mã, tạo nên cảnh thiên nhiên hùng vĩ, hữu tình. Xưa kia dưới chân núi Đống, đã từng diễn ra cảnh trên bến dưới thuyền, tấp nập kẻ mua người bán các sản phẩm chế tác từ đá núi Nhồi. Đá núi Nhồi đã đi muôn nơi, có mặt ở hầu khắp các công trình kiến trúc, lăng tẩm, đền đài, bia ký, tượng đá... Những bàn tay tài hoa của người thợ đục đá làng Nhồi đã tạo nên những tác phẩm nghệ thuật bằng đá tuyệt mỹ và vô giá. Chất đá ở đây nổi tiếng là quí hiếm, không nơi nào có được. Đó là sản vật quý của mọi người, sắc đá ống ánh như ngọc lan, chất xanh biếc như khói nhạt, tiếng đá vang trong, nổi tiếng tận Trung Hoa. Thời Bắc thuộc, các Thái thú lấy đá núi Nhồi làm khánh chở về Trung Quốc, khánh đá núi Nhồi kêu ngân vang như tiếng chuông.

  Núi Nhồi còn có tên là núi Khế, núi An Hoạch, Nhuệ Sơn, núi Vọng Phu. Từ xa, ta có thể nhìn thấy trên đỉnh núi Nhồi nổi bật trên nền trời một trụ đá hình người phụ nữ bế con hướng nhìn ra phía biển Đông xa xôi, nên đặt tên là “Đá Vọng Phu” (Vọng Phu Thạch - Đá trông chồng). Trải bao gió bụi của thời gian, hình ảnh đó vẫn cứ “trơ gan cùng tuế nguyệt”. Nhiều văn nhân, thi sĩ đã dừng chân, đề thơ, tiêu biểu là bài thơ của Đại thi hào Nguyễn Du:

                       “Đá chăng? Người đó? Chi đây?

                   Một mình trên ngọn núi này ngàn năm

                          Bạn đời không chút mộng rằng

                   Điều trinh giữ vẹn tấm thân muôn đời

                          Mưa thu lệ cũng tuôn rơi

              Dấu rêu lấp triện, phi lời văn chương

                          Núi đồi lớp lớp khói sương

              Để riêng bạn gái luân thường nêu cao”

Và trong dân gian Thanh Hóa còn lưu truyền câu thơ:

                          “Vọng Phu trẻ mãi không già

                     Thủy chung đứng đó biết là chờ ai?

  Dưới chân núi Vọng Phu và các núi chung quanh là quần thể di tích lịch sử văn hóa phong phú. Đó là: Chùa Hinh Sơn (Hinh Sơn Tự, còn có tên là Chùa Hang dưới chân núi Vọng Phu), chùa Tiên Sơn (phía Đông núi Khế), Đình Thượng (trên sườn núi Chồng Mâm, thờ thần núi), chùa Báo Ân (Đông Hưng) xây dựng khoảng năm 1099 - 1100, chùa Quan Thánh (Đông Hưng), lăng Quận Mãn (Mãn Quận Công, làng Nhuệ) hiện còn bia đá, cặp hổ phục, rồng chầu, cặp ngựa đá, hai cặp tượng đá (dũng lực sĩ, cường lực sĩ, tráng lực sĩ, đinh lực sĩ). Đây được coi là công trình kiến trúc nghệ thuật điêu khắc đá độc đáo ở Thanh Hóa thế kỷ XVIII.

 

8. Cửa Hà

Thắng tích Cửa Hà

  Đoạn sông Mã chảy trên đất Cẩm Thủy qua những thác ghềnh như thác Ngốc, thác Sóng Ngàn đến đất Phong Ý lòng sông mở rộng (trên 200 m) trông như một hồ lớn, nước trong xanh hiền hòa trong mùa khô, cuộn xoáy trong mùa mưa, bờ bên tả là vách núi dựng đứng (cao trên 220 m), đỉnh núi nhấp nhô. Nơi đây tập trung các bè gỗ, luồng nứa rất nhiều để đổ về xuôi; cảnh trên bến dưới thuyền, đông vui nhộn nhịp. Tên Cửa Hà có từ đầu thế kỷ XIX, khi huyện lỵ Cẩm Thủy chuyển từ Cẩm Vân về Phong Ý thuộc địa phận 2 xã Cẩm Sơn và Cẩm Phong. Cửa Hà có vẻ đẹp ngoạn mục của một cửa sông miền xuôi. Cảnh ngoạn mục ấy nằm  ngay bên vùng rừng núi hùng vĩ, âm u của miền sơn cước tạo nên vẻ đẹp riêng khiến cho Cửa Hà trở thành một thắng cảnh của xứ Thanh. Sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi, Kiến văn tiểu lụccủa Lê Quý Đôn đã xếp cửa Hà là danh thắng. Năm 1937, đã có dự định mở hội chợ Đông Dương tại đây, nhưng sau không thực hiện.

  Đền Cửa Hà được xây dựng từ thế kỷ XV, thờ các anh hùng liệt nữ có công giữ gìn vùng đất này, cũng là để thờ thần sông, thần núi, thờ các nghĩa sĩ trận vong Lam Sơn và thờ Mẫu (năm 2002 đền bị núi đá sụt lở nhấn chìm dưới lòng sông Mã). Trên vách đá dựng đứng ở độ cao 5m ngay sau mái đền, ta dễ nhìn thấy những vần thơ tuyệt tác Bích Mai Nhai ca ngợi phong cảnh cửa Hà với tất cả nỗi niềm xao xuyến:

Phiên âm:

Sơn nguy nguy hề thủy thanh thanh

Bất kiến nhân hề khước hữu tình

Đắc ý hoảng nghi du bích lạc

Dương tiên hỗn tự bộ vân trình

Không Không thiên lại tiêu thiều vận

Hác lịch tuyền lưu gác thược thanh

Tá vấn đăng lâm du thiển khách

Ngô châu hà xứ thị bồng doanh

Tạm dịch:

Núi cao vời vợi nước trong xanh

Cảnh cũ người nay thật hữu tình

Những tưởng du chơi vườn bích ngọc

Vung roi vó ngựa chốn mây xanh

Vẳng vẳng nhạc thiều êm sáo trúc

Rì rầm suối ngọc khúc liên thanh

Du lãm chốn này bao du khách

Bồng lai tiên giới cảnh đâu bằng

 

9.  Suối cá Cẩm Lương

Suối cá thần Cẩm Lương

  Cẩm Lương là một xã miền núi, nằm trong thung lũng của dãy núi đá vôi Bồ Um, cạnh sông Mã. Cư dân ở đây chủ yếu là người Mường. Khí hậu quanh năm ôn hoà, mát mẻ (nhiệt độ trung bình 20 - 22oC).

  Suối cá Cẩm Lương (hay còn gọi là Vó cá Cẩm Lương, hang cá Cẩm Lương) nằm trong địa phận làng Ngọc, xã Cẩm Lương, huyện Cẩm Thuỷ, cách huyện lỵ Cẩm Thuỷ 10 km về phía Tây - Bắc, cách thành phố Thanh Hoá 80 km về phía Tây.

  Theo dân làng Ngọc kể lại thì hang cá ở đây có từ xa xưa. Có nhiều truyền thuyết nói về sự xuất hiện của đàn cá, nhưng hầu như đều chung một quan niệm đó là những thần linh của núi, sông đang ngày đêm bảo vệ cuộc sống yên vui của bản làng. Vì vậy đàn cá được dân bản địa phong là Cá Thần, mọi người không dám đánh bắt ăn thịt. Và cứ thế, cùng với thời gian, đàn cá ngày càng sinh sôi, nảy nở.

  Suối Ngọc chảy ra từ một hang lớn của núi Bồ Um. Cửa hang rất nhỏ, chỉ một người chui lọt, lòng hang rất rộng và nước sâu. Đàn cá sống trong hang, có tới hàng ngàn con. Những con cá Chúa nặng khoảng 20 đến 30 kg, mang có vòng đỏ, ánh vàng tựa như đeo khuyên bằng vàng. Ngày thường cá Chúa không ra khỏi hang, mà chỉ vào mùa lũ, nước to, chúng mới ra khỏi hang, nhưng cũng rất ít người trông thấy. Suối Ngọc không dài lắm, từ cửa hang ra tới khu vực đền Ngọc khoảng 150m, chỗ rộng nhất khoảng 6m, chỗ nước sâu nhất độ 1m. Đàn cá hàng ngàn con nặng từ 2 đến 8kg quanh quẩn ở đoạn suối này rồi vào hang, không bao giờ ra khỏi dòng suối, mặc dù phía ngoài là một cánh đồng rộng.

  Nước suối Ngọc bao giờ cũng trong vắt, cả mùa mưa lẫn mùa khô. Dưới dòng suối là một lớp đá cuội óng ánh dưới ánh mặt trời như những viên ngọc càng tạo ra vẻ đẹp kỳ diệu khi đàn cá bơi lội qua.

  Dân bản Ngọc hàng ngày thường ra suối tắm giặt, rửa rau, vo gạo, đàn cá không sợ người mà rất thân thiện, quây quần quấn quýt quanh người.

  Bên cạnh suối có đền Ngọc, thờ Tứ phủ Long Vương. Đền còn đơn sơ, nhưng là nơi ngày rằm, mùng một nhân dân quanh vùng đến thắp hương tế lễ, cầu thần Tứ phủ Long Vương phù hộ cho sức khoẻ và công việc làm ăn của con người.

  Phía trên suối Ngọc là dãy núi Trường Sinh, có một động lớn người ta còn gọi là động cây đăng (trước đây có một cây đăng cổ thụ trước cửa động, nhưng nay không còn nữa). Vị trí của động cao khoảng 70 m so với khu vực suối Ngọc. Cửa động rộng từ 5  - 8 m, cao khoảng 7 m  nên rất dễ ra vào. Trong động có nhiều nhũ đá với những cảnh tượng như đôi trai gái đang đứng ôm nhau, người con gái có suối tóc dài tận gót, tượng mẫu tử, bầu sữa, kho lúa, kho vàng... trông rất đẹp mắt và nên thơ.

  Suối cá và những hang động ở làng Ngọc - Cẩm Lương là một địa danh phong cảnh hữu tình, với những truyền thuyết huyền bí về đàn Cá Thần, đúng là một danh thắng nổi tiếng của quê hương Thanh Hoá cần được tôn tạo và bảo vệ.

 

10. Ngàn Nưa

Thắng tích Ngàn Nưa

  Thuộc địa phận ba huyện Như Thanh, Nông Cống, Triệu Sơn. Trước kia nơi đây từng là cả một rừng nứa bạt ngàn, có nhiều gỗ quý và động vật quý hiếm. Đã có câu phương ngôn: “Vật rừng Nưa, dưa chợ Bạng”. Lại có nhiều suối đẹp, lắm cá, đặc biệt là cá “mầm mầm rễ chuối”. Cách đánh cá cũng lạ: lấy lá ngơn hoặc khô dầu vò nhỏ, thả xuống suối, cá say nổi lên, vớt bỏ vào nồi nấu chín ăn ngay.

  Từ xưa, Ngàn Nưa được xem là một vùng gắn với những huyền thoại và giai thoại. SáchLịch triều hiến chương, sách Truyền kỳ mạn lục đều nhắc đến người tiều phu núi Na. Dân gian thì truyền tụng về ông Tu Nưa, vị thần tạo ra núi Quảy, sông Cày. Có thuyết nói Ngàn Nưa là nơi Bà Triệu dấy binh. Nơi đây, Tống Duy Tân đã đặt cứ điểm chống Pháp, và Nguyễn Thượng Hiền cũng về ở ẩn.

 

11. Vườn cò Tiến Nông

Vườn cò Tiến Nông

  Từ thành phố Thanh Hoá dọc theo Quốc lộ 47, qua cầu Thiều rẽ trái và xuôi theo đê sông Hoàng Giang là đường rải cấp phối gần 3km, vườn cò Tiến Nông sẽ hiện ra trước mắt chúng ta. Vườn cò là một gò đất cao và rộng có nhiều bụi tre gai, nằm giữa cánh đồng trũng. Vào mùa mưa vườn cò nằm giữa hồ nước rộng, nên làng Nga còn có tên là “Làng cò hồ Nga” - xã Tiến Nông, huyện Triệu Sơn. Vào buổi chiều khi cò đi kiếm ăn về thì đó là một vườn tre xanh biếc, cò trắng đậu trên ngọn tre trông như một tấm thảm trắng phủ lên trên.

  Theo như lời kể của những người cao tuổi ở xã Tiến Nông thì vườn cò đã có từ cách đây hơn 100 năm.

  Vườn cò Tiến Nông có diện tích 3,5 ha, trong đó có 2 ha mặt nước hồ bao quanh và 1,5 ha đất trồng gần 200 bụi tre cao từ 3-10 m, là nơi cư trú và làm tổ của các loài chim. Theo nghiên cứu gần đây, vườn cò Tiến Nông có 6 bộ, 10 họ  với 17 loài, trong đó có Bộ Hạc (Cinomiiformes) gồm 6 loài, chiếm số lượng lớn của vườn cò. Trong đó nhiều nhất là cò trắng (cò ngàng lớn - camerodius avous; cò ngàng nhỏ - Mesnophoyx intermedia); cò bợ (Ardeola bacchus), có tháng cả cò trắng và cò bợ tới 3.500 con. Ngoài ra còn có Cuốc chân đỏ (Amamonis akool); cuốc ngực trắng (A.phoenicurus); Rẽ giun lớn (gallinogo nemoricola); Rẽ giun nhỏ (Lymnocryptes minimus); Sẻ quạt họng trắng (Rhipidura albicollis)...

  Đa số  các loài cò ở đây đều thuộc loài định cư, có yêu cầu sinh thái phức tạp, hoạt động quanh năm, hàng ngày kiếm ăn từ 5 giờ đến 17 - 18 giờ, phạm vi từ 1 - 10 km. Tuỳ từng loài mà vị trí kiếm ăn và thức ăn của chúng khác nhau: Cò bợ chỉ quanh bờ ruộng, bờ ao hay ở những hồ nước cạn, nó có thể đứng rình mồi hàng giờ hoặc dò dẫm dọc theo bờ nước để bắt tôm, tép, cá con.  Khi cò bợ đứng ta thấy cò có đầu và cổ màu vằn đỏ, lưng nâu, khi cò bợ bay lên hoặc bay là là trên mặt ruộng ta thấy cánh và đuôi có màu trắng.

  Cò trắng thường kiếm ăn ở các ruộng lúa nước, thức ăn là tôm, tép, cá con và các loài ếch nhái nhỏ...

  Mùa sinh sản của các loài cò thường kéo dài từ tháng 3 đến tháng 9 hàng năm, trong thời gian sinh sản cò có bộ lông đẹp và rực rỡ, cò trắng có bộ “áo cưới” kỳ lạ, khi đó bộ lông trắng và có thêm những lông dài ở đầu, ngực và vai, các lông này là các sợi lông nhỏ, không móc vào nhau, khi cò đậu chúng rủ xuống như tấm mành thưa, còn khi bay trên bầu trời thì các lông đó bay như những dải lụa trắng.

  Theo thống kê chưa đầy đủ thì ở Việt Nam có 850 loài chim, một số loài chim có số lượng lớn hầu hết đều nằm ở các tỉnh phía Nam. Ở phía Bắc Việt Nam những sân chim như vườn cò Tiến Nông là vô cùng quí hiếm. Sự hiện diện của vườn cò Tiến Nông là một trong những nguồn tài nguyên tự nhiên quý giá cần được bảo vệ và xây dựng thành nơi tham quan, học tập cho học sinh, sinh viên và phát triển thành điểm du lịch sinh thái ở Thanh Hoá.

 

12. Vườn Quốc gia Bến En

Vườn Quốc gia Bến En

  Vườn Quốc gia Bến En nằm trong địa giới hành chính các xã: Xuân Bái, Bình Lương, Xuân Bình, Hóa Quỳ thuộc địa bàn hai huyện Như Xuân và Như Thanh, cách thành phố Thanh Hóa 36 km về phía Tây Nam. Đây là một cảnh quan thiên nhiên, được xếp vào loại đẹp nhất trong 10 vườn quốc gia của cả nước. Vườn có tổng diện tích 16.634 ha,  gồm 18 tiểu khu và dãy núi đá vôi Hải Vân; vườn có khu vực núi thấp; khu vực đồi gò có 121 hòn đảo nhỏ; hai con sông: sông Mực, sông Chàng và bốn con suối: Hàn Vị, Thổ, Cốc, Tạm. Hồ sông Mực có trên 40 loài thủy sản, nổi tiếng là cá mè. Hồ dưới có nhiều đảo đá vôi, cho ta cảm giác như đến với một vịnh Hạ Long thu nhỏ.

  Rừng Bến En là rừng thứ sinh với nhiều kiểu rừng kín khác nhau, các nhà chuyên môn phân biệt thành nhiều kiểu. Hệ thực vật có 462 loài, 125 bộ. Đáng chú ý là lim xanh và các loại lim vẹt, lát hoa, dổi, sến mật, chò chỉ, bù hương, vàng tâm. Ưu thế là lim xanh, săng lẻ, đặc trưng của hai luồng thực vật miền Bắc, miền Nam. Còn nhiều cây nguyên liệu (song, mây) cây cho dầu, cây làm thuốc, hoa phong lan.

  Động vật rừng Bến En cũng đa dạng: côn trùng có 132 họ, 31 giống và 300 loài. Có 62 loài thú: có 19 loài được liệt vào sách đỏ Việt Nam. Có cả hổ, voi châu Á, vượn bạc má, gấu chó, khỉ là những loại liệt vào hạng đang bị đe doạ tuyệt chủng. Chim có 162 loài, 114 giống, 44 họ, 18 bộ. Có loài Myđeria Leucocephala là loại quý hiếm cấp độ quốc gia. Đã ghi nhận được 88 loài bướm của 10 họ, trong đó:

  - Loài Ypthima là chưa được biết tới ở Việt Nam.

  - 4 loài được coi là cống hiến mới: Meganoton (rufescens), Anbuly Clavata, Clanistitan, Smenrin thulus qua draiphunctatus.

  Lưỡng cư và bò sát cũng đa dạng. Đã ghi nhận được loài Bufogabatus là loại hiếm trong sách đỏ Việt Nam.

  Vườn quốc gia Bến En là một vườn quý hiếm, tiềm năng đa dạng và phong phú về sinh học và phong cảnh, sẽ giúp nhiều cho các loại hình du lịch và cho việc nghiên cứu thiên nhiên Thanh Hóa.

Liên hệ:

Bản quyền @2016 thuộc Trung tâm thông tin
Sở Tài nguyên môi trường Thanh Hóa
Địa chỉ: 14 Hạc Thánh - Thành phố Thanh Hóa -
Tỉnh Thanh Hóa
Đơn vị phát triển:

Phát triển bởi Trung tâm Công nghệ phần mềm và Gis
Cục Công nghệ thông tin
Bộ Tài nguyên và Môi trường

Thống kê truy cập:
Số người đang truy cập: 4
Số người truy cập hôm nay: 24
Tổng số lượt truy cập: 179993
Tổng số thành viên: 9
 
Atlas điện tử tỉnh Thanh Hóa